Người miền Trung và Đà Nẵng nói riêng vốn không câu nệ vật chất nên việc cưới hỏi cũng không đòi hỏi tốn kém nhiều. Tuy nhiên có lẽ vì còn ảnh hưởng của kinh đô Huế xưa mà họ coi trọng về các nghi thức hơn. Nhìn vào phong tục cưới hỏi miền Trung, bạn sẽ nhận ra sự giao thoa giữa những lễ nghi ràng buộc của miền Bắc và sự phóng khoáng của miền Nam.

Nếu như người xưa thực hiện nghi thức quan trọng của cuộc đời qua sáu bước gọi là lục lễ, diễn ra trong vòng ba năm mới hoàn tất, giờ đây việc cưới hỏi đã giản lược bớt những điều rườm rà, ít tiến bộ như đặt nặng vấn đề phù hợp về tuổi tác hay sính lễ cầu kỳ. Quy trình cưới xin cũng đã rút gọn. Nếu đường sá xa xôi, đám hỏi cũng có thể gộp chung với đám cưới. Khi đó, trong đám cưới, sính lễ ăn hỏi được bày lên trước, sau đó nhà gái mang cất đi, rồi nhà trai lại bày ra những vật phẩm cho lễ cưới.

Cụ thể, thông thường ngày nay việc cưới hỏi diễn ra qua các bước như sau:

Lễ đi nói ( hay còn gọi là lễ dạm ngõ) cha mẹ chàng trai mang một chai rượu, khay trầu cau sang nhà gái đặt vấn đề về chuyện cưới xin.

Lễ đi nói trong phong tục cưới hỏi người miền Trung

Trong lễ đi nói ( hay còn gọi là lễ dạm ngõ ) cha mẹ chàng trai mang một chai rượu, khay trầu cau sang nhà gái đặt vấn đề về chuyện cưới xin

Lễ đi hỏi (dạm ngõ) hay đính hôn

Lễ vật gồm năm mâm quả: quả trầu cau với 105 quả cau tượng trưng cho câu nói trăm năm hạnh phúc; quả trà rượu ngoài trà và đôi rượu còn có phong bì tiền dọn để hỗ trợ nhà gái chuẩn bị cho tiệc đám hỏi hôm đó và vàng (thường là đôi hoa tai nhưng cũng có nhà đi nhẫn); quả bánh kem đính hôn; quả nem chả với số lượng chẵn cặp; mâm ngũ quả được kết rồng phượng cầu kỳ. Cũng có nhà theo tục cũ đi thêm một quả bánh su sê nữa.

Lễ vật trong đám hỏi

Lễ vật gồm năm mâm quả: quả trầu cau với 105 quả cau tượng trưng cho câu nói trăm năm hạnh phúc

Ngoài vòng tay, nhẫn hoặc hoa tai vàng, mẹ chồng còn trao cho con dâu một phong bì tiền mừng dâu. Phong bì tiền dọn trong quả trà rượu sẽ đưa cho ba mẹ cô. Số tiền này ngay sau đó thường được nhà gái cho lại đôi vợ chồng. Khi nhà trai ra về, khay quả trống không phải được lật ngửa nắp để cho thấy lễ vật đã được nhà gái tiếp nhận.

 

Lễ cưới

trước khi vào nhà gái, đoàn rước dâu cử một người trong họ tộc mang theo khay rượu vào nhà cô dâu để trình giờ xin được vào làm lễ. Sính lễ vẫn là 5 mâm quả như lễ ăn hỏi. Nếu nhà gái có bày bàn thờ gia tiên, nhà trai mang theo đôi nến hồng để gắn lên chân nến đặt sẵn.

Mang khay rượu vào nhà cô dâu

Trước khi vào nhà gái, đoàn rước dâu cử một người trong họ tộc mang theo khay rượu vào nhà cô dâu để trình giờ xin được vào làm lễ

Nói về số lượng người trong đoàn rước dâu, người Đà Nẵng quan niệm tổng số phải ứng với số sinh hoặc lão (1, 2, 3, 4, 5, 6… tương ứng là sinh, lão, bệnh, tử, sinh, lão…). Đoàn đưa dâu của nhà gái có số lượng nhiều hơn miễn là cũng đảm bảo số sinh hoặc lão.

Không còn quan niệm cũ là mẹ không đi đưa dâu bởi đi theo nghĩa là còn luyến tiếc chưa muốn gả con, giờ đây mẹ cô dâu thường đi một xe khác chứ không chung với đoàn nhà mình.

  Sau khi lễ tại nhà trai kết thúc, nhà gái ra về, cô dâu chú rể bưng khay trầu cau và thuốc lá đứng tiễn. Người nhà gái lấy một miếng trầu hoặc điếu thuốc và bỏ vào khay những đồng tiền lẻ, mệnh giá có thể từ 1.000 đến 50.000 đồng để cầu may mắn.

Sau ba ngày, đôi vợ chồng son trở về thăm nhà cô dâu mới gọi là lễ phản diện hay lại mặt. Cũng có gia đình cho phép họ về lại mặt ngay buổi chiều lễ cưới.

Hân Di